Archives

Bùi Vĩnh Phúc: Nhà Phê Bình Của Thơ Mộng, U Hiển

9 Khuon Mat . 9 Phong Khi Van Chuong

Tuyển tập “9 Khuôn Mặt. 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.

Tuyển tập “9 Khuôn Mặt…” dày 440 trang của Bùi Vĩnh Phúc có một điểm đặc biệt: bạn chỉ cần đọc khoảng mười trang sẽ nhận ra tự thân tuyển tập cũng là một sáng tác văn học vì chính bút pháp phê bình của họ Bùi cũng đầy sương khói nghệ thuật. Chúng ta có thể nghiệm ra rằng, một tác phẩm nghệ thuật, thí dụ, ca khúc “Hương Xưa” của nhạc sĩ Cung Tiến, tuy ngắn chỉ có 5 phút, nhưng tuổi thọ có thể là vài thập niên hay vài thế kỷ, vì thỉnh thoảng chúng ta lại có thể nghe lại dòng nhạc của Cung Tiến, năm sau, mười năm nữa, và nửa thế kỷ nữa. Đó là tuổi của nghệ thuật. Tương tự, các bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng, truyện của Nguyễn Mộng Giác và tất cả tác phẩm của 9 người trên, tuổi thọ không chỉ trong vài trăm trang sách. Như Truyện Kiều của Nguyễn Du, đôi khi gắn bó rất là lâu dài với hồn thơ của một dân tộc. Và cũng tương tự, với văn phong cực kỳ thơ mộng của Bùi Vĩnh Phúc, tuyển tập phê bình này trở nên có một đời sống riêng, tuổi thọ đã vượt xa hơn 440 trang, và chúng ta có thể đọc đi đọc lại, cũng tương tự như khi nghe nhạc Cung Tiến.
xem tiếp

Tháng Tư, Đọc ‘Thủy Mộ Quan’ Của Nhà Thơ Viên Linh (1938-2024)

Huỳnh Kim Quang

Hình trang nhất
Nhà thơ Viên Linh. Minh họa Đinh Trường Chinh

“Hồn còn tầm tã mưa rơi
Tháng Tư máu chảy một trời sương tan.”

Đó là hai câu thơ trong bài Gọi Hồn được in trong tập thơ “Thủy Mộ Quan” của nhà thơ Viên Linh, người vừa từ giã cõi mộng đi về chốn vĩnh hằng hôm 28 tháng 3 năm 2024 tại tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi.

Nhà thơ Viên Linh ra đi trong Tháng Ba, nhưng tang lễ của ông diễn ra trong Tháng Tư. Ừ nhỉ, Tháng Tư! Bây giờ đã bước vào Tháng Tư. Tháng Tư đối với người Việt Nam chứa đầy ký ức thương đau! Đất nước thay ngôi đổi chủ. Hàng hàng lớp lớp người bị đẩy vào các ngục tù khổ sai trên khắp nước. Hàng triệu người bị đuổi khỏi nhà cửa vườn tược để đi tới những “vùng kinh tế mới” xa xôi, lạ hoắc, những nơi “khỉ ho cò gáy”. Hàng trăm ngàn người bỏ nước ra đi, lên núi, xuống biển để tìm lẽ sống trong cái chết bi hùng! Đúng như nhà thơ Viên Linh đã viết, “Tháng tư máu chảy một trời sương tan”.
xem tiếp

Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa như thế nào?

Phạm Trần phỏng vấn ông Hoàng Đức Nhã

Phạm Trần - Các bài viếtNha (2)
Ông Phạm Trần & Ông Hoàng Đức Nhã

Lời giới thiệu: Cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Henry Kissinger, một nhân vật có quan hệ với Việt Nam Cộng Hòa trong giai đoạn Hòa đàm chấm dứt chiến tranh ở Paris, Pháp, qua đời ngày 29/11/2023, thọ 100 tuổi. Trong khi đó, ông Hoàng Đức Nhã (sinh năm 1942), là nguyên Bí thư, Tham vụ Báo chí của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, đồng thời là Tổng trưởng Bộ Dân vận-Chiêu hồi năm 1973. Ông Hoàng Đức Nhã đã có mặt trong các cuộc thảo luận gay go về Hiệp định Ba Lê tại Dinh Độc Lập giữa Tổng thống Thiệu và phía Mỹ gồm các ông Henry Kissinger, Đại Tướng Alexander Haig và Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker.
Nội dung bài phỏng vấn ông dưới đây được tôi thực hiện, ngay sau khi ông Kissinger tạ thế, là nhắm làm sáng tỏ một thắc mắc của lịch sử rằng “Có phải VNCH đã bị Mỹ bỏ rơi để thất thủ năm 1975”?
Mời bạn đọc theo dõi.

xem tiếp

Viết về Đa Hiệu số 107 – Tháng 5/2016

bia-dh-107

 

Tôi thật sự xúc động khi cầm trên tay cuốn báo Đa Hiệu số 107. Tranh bìa với hình ảnh con chim bồ câu tung bay trên nền cờ vàng ba sọc đỏ rực rỡ, hai cánh tay đưa lên nắm chặt với xích xiềng đã bị bứt tung bên hoa vàng và những từ Dân Chủ, Tự Do. Có phải người họa sĩ muốn nói lên quyết tâm phá tan áp bức, mang đến tự do dân chủ và mùa xuân thanh bình cho dân tộc của tất cả con dân Việt Nam?
xem tiếp

Theo Dấu Ngô Thế Vinh Qua Những Trang Văn

Trần Thị Nguyệt Mai

Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy SóngMekong Dòng Sông Nghẽn Mạch.

Một trùng hợp thật ngẫu nhiên khi tạp chí văn học nghệ thuật Ngôn Ngữ phát hành vào tháng 2-2024 cũng vào dịp Tết Giáp Thìn 2024 ra số đặc biệt giới thiệu Bác sĩ / Nhà văn / Nhà hoạt động môi sinh Ngô Thế Vinh. Năm Rồng, giới thiệu người kết nghĩa với Cửu Long, tưởng không còn gì thích hợp hơn.
xem tiếp

Thời đi học 11: The Skin of Our Teeth / (Thoát hiểm trong) đường tơ kẽ tóc

Hồ Thị Ngọc Trang


Tờ chương trình cho vở kịch Broadway năm 1942.
Tác phẩm nghệ thuật của Don Freeman – Nguồn: wikipedia.org

Vở kịch lẫy lừng trong văn học Mỹ (đoạt giải Pulitzer năm 1943), THE SKIN OF OUR TEETH, của Thornton Wilder gắn liền với đời sinh viên ĐHSP năm cuối của tôi từ trên giảng đường đến sân khấu kịch, đến kỷ niệm về tình yêu, tình bạn mà mãi tận ngày nay, niềm hạnh phúc mỗi lần nhớ tới vẫn tràn bờ trong tôi.

Nhan đề tác phẩm mượn từ Sách Job trong Cựu Ước: “My bone cleaveth to my skin and to my flesh, and I am escaped with the skin of my teeth.”/ Xương tôi dính vào da và thịt của tôi và tôi thoát hiểm chỉ còn da răng.
xem tiếp

Ông Phật Dược Sư Của Tôi

Song Vũ

Hình Ảnh Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương (khổ lớn)

Chúng tôi di chuyển bộ từ Trại 3 thuộc Liên Trại 1 ở phía Bắc sông Hồng về Trại 8 phía Nam sông Hồng vào tháng 5/1977. Trại 8 thuộc vùng đồi núi Hoàng Liên Sơn nằm gần khu hồ chứa nước cho công trình thủy điện Thác Bà. Ngay từ lúc đặt chân tới trại mới, công việc của chúng tôi là tu bổ sửa sang lại khu trại đã cũ đã xuống cấp này và chuẩn bị cho vụ trồng cây lương thực sắp tới. Vì thời tiết của khu trại cộng thêm cường độ lao động (chủ yếu là phát quang trồng rẫy và đốn cây, tre, nứa) khá căng thẳng nên sức lực của tù nhân ngày càng kém.

Cho đến tháng 7 thì dịch kiết lỵ, tiêu chẩy ập tới trên diện rộng cho cả liên trại. (Thực tình tôi cũng không còn nhớ chính xác là Liên Trại 4 này có bao nhiêu trại nhưng qua các kỳ đi lãnh lương thực phẩm, gặp gỡ các bạn tù từ các trại khác thì ít nhất tôi cũng nghĩ là Liên Trại này gồm 8 trại và một trại y tế là Trại 9.)
xem tiếp

Song Vũ – Ngô Văn Xuân – Sau Cơn Binh Lửa – Ông Phật Dược Sư Của Tôi

Doãn Cẩm Liên


Tác giả Song Vũ ký tặng sách
Nguồn: Vuông Chiếu Luân Hoán

Tóm tắt tiểu sử: Song Vũ được hai cụ thân sinh đặt tên Ngô Văn Xuân vào năm 1940 tại thành phố Hải Phòng. Ông tốt nghiệp Võ Bị Quốc Gia Việt Nam – Khóa 17. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, chức vụ cuối cùng ông giữ là Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 44, Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Suốt thời gian binh nghiệp ông bị thương ba lần, vẫn chưa kinh hoàng bằng 13 năm tù Cộng Sản. Hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai, ông đi theo chương trình HO và định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1992.

Ở nơi xứ người, môi trường hoàn cảnh thay đổi gần như trăm phần trăm, cuộc sống ổn định. Tâm ông đã lắng đọng và đủ yên để ghi xuống những cảm xúc cùng những câu chuyện trong suốt cuộc đời binh nghiệp qua hai quyển “Chinh Chiến” xuất bản năm 2021 và “Sau Cơn Binh Lửa” tái bản lần hai năm 2023.
xem tiếp

Tháng Ba, nhớ “Gãy Súng” của Cao Xuân Huy

Đỗ Trường

Cao Xuân Huy – Người vẫn không thể thoát ra khỏi cuộc chiến
Sau 1975, Văn học cũng như con người buộc phải trốn chạy, tìm đường vượt biển. Tưởng chừng, nơi miền đất lạ, dòng văn học tị nạn ấy sẽ chững lại. Nhưng không, nó như những nhánh sông âm thầm vặn mình bồi lên mảnh đất khô cằn đó. Chiến tranh, người lính vẫn là đề tài nóng bỏng để các nhà văn tìm tòi, khai thác.

Vào thời điểm ấy, những nhà văn quân đội Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư, Thế Uyên… đang ở độ chín và sung sức. Và sau đó, xuất hiện hàng loạt nhà văn xuất thân từ những người lính chiến đã trải qua những năm tháng tù đày, như: Phạm Tín An Ninh, Song Vũ hay Cao Xuân Huy… Tuy văn phong, thi pháp riêng biệt, nhưng tựu trung, mỗi trang viết của họ đều để lại những ấn tượng thật sâu sắc trong lòng người đọc. Nếu văn của Phạm Tín An Ninh đẹp, sáng và nhẹ nhàng, thì từ ngữ trên những trang viết của Cao Xuân Huy nặng tính khẩu ngữ trần trụi, mãnh liệt. Có một điều rất thú vị, đọc Cao Xuân Huy, tôi lại nhớ đến nhà thơ người lính Nguyễn Bắc Sơn. Bởi, tính đặc trưng ngôn ngữ làm nên hình tượng, chất lính rất đặc biệt trong thơ văn của hai ông văn thi sĩ này.
xem tiếp

Thụy Khanh – Buồn xưa đã hết

Đặng Mai Lan

Une image contenant texte, femme, art, Couverture de livre Description générée automatiquement
Buồn Xưa Bây Giờ – tập thơ của Thụy Khanh
(Tranh bìa Đinh Cường – An Tiêm xb 1992)

Buồn xưa bây giờ có còn buồn không?

Câu hỏi đã lan man trong đầu tôi khi hay tin chị mất.

“Buồn Xưa Bây Giờ” là tựa của một tập thơ. Bây giờ là khoảng thời gian nào? Đã qua chưa hay vẫn là hiện tại, vẫn mãi là những nỗi buồn của người tạo ra nó. Phải chăng tác giả muốn nói rằng nỗi buồn sừng sững đó, không thể phôi phai dù bất cứ lúc nào, ở đâu? Tại sao lại phải như thế?

Đã có lần tôi viết về chị. Một người tôi quen từ những ngày mới bước chân vào thế giới văn chương và thân thiết cho đến bây giờ dù tuổi tác chúng tôi cách nhau khá xa.
xem tiếp