Hồi Sinh Cơn Hôn Mê

Ban Mai

Viết tặng những người bạn văn đàn anh của tôi

thường có những giấc mơ
gặp gỡ bạn bè
những người bạn ra đi đã nhiều năm
nay kéo về
nói cười ấm áp
tôi rất vui – rất vui trong từng đêm như thế
để lúc tỉnh ra
ngồi một mình trong bóng tối
quanh hiu
(*)
(Lữ Quỳnh)

Mùa hạ, khi những cơn gió Lào khô rốc từ Vịnh Bengan thổi vào dãy Trường Sơn đem hơi nóng ngùn ngụt lửa phả vào mặt, đó là lúc các tin buồn tới tấp bay về bên tôi. Từng người, từng người bạn thay nhau giã từ cuộc chơi. Cái nóng hực lửa bên ngoài, và cái nóng trong lòng tôi ngày một dâng cao.
Mới tuần trước thôi, anh Nguyễn Xuân Hoàng vẫn còn email trả lời, anh nói bài viết này anh thích quá cho anh post trên VOA đi, tôi còn đùa anh mệt như vậy mà vẫn còn làm việc sao, tùy anh thôi. Em sẽ gửi các bài tùy bút ngắn anh đọc hàng ngày cho vui.
Đó là thời gian sau này khi biết bệnh tình anh đến giai đoạn cuối, anh đau đớn với cơn bệnh ung thư chống chọi hàng giờ, tôi không còn email hỏi thăm sức khỏe nữa. Vô ích. Đừng đụng đến vấn đề này, hãy viết những cái gì nhẹ nhàng cho anh đọc, anh vui.
Nhiều hôm sau khi hóa trị về, chắc là đau đớn lắm, không kiềm hãm nổi anh viết, anh chỉ muốn chết thôi, bây giờ ước mơ lớn nhất của anh là được chết.
Tôi biết, một người đàn ông can trường như anh mà thốt lời như vậy là đã quá giới hạn chịu đựng của con người, anh đang chống chọi với nỗi đau kinh hoàng. Bắt đầu hôm đó, tuần nào tôi cũng gửi cho anh vài câu chuyện vui, vài dòng tùy bút, không nói đến chuyện tử sinh. Tôi biết, anh muốn quên cơn đau trong những khoảng thời gian cơn bệnh không hoành hành.
Tôi xem anh như một người anh lớn, bắt đầu từ ngày Cổ Ngư giới thiệu tôi đăng bài trên trang web Tạp chí Văn của anh. Lúc đó Tạp chí Văn có trang chuyên đề TCS do chị Lệ phụ trách, bạn tôi rủ rê viết bài cho vui.
Nguyễn Xuân Hoàng với tiểu thuyết “Khu rừng hực lửa” đăng nhiều kỳ trên Tạp chí Văn trước 75, những cuốn tạp chí trong tủ sách gia đình khi lớn lên tôi đã đọc. Tôi không ngờ có ngày mình lại quen biết với người chủ biên Tạp chí Văn này.
Anh nhiều lần gửi các tập Tạp chí Văn về cho tôi nhưng lần nào cũng “thất lạc”. Mấy năm trước, anh đề nghị tôi cho anh post bài trên VOA Tiếng Việt, trang blog văn học nghệ thuật của anh. Tôi cộng tác với trang nhà của anh từ đó. Tôi tin một giáo sư am tường Triết học, một nhà văn dày dạn kinh nghiệm như anh, chắc chắn hiểu rõ lẽ vô thường, và anh đã dọn sẵn cho mình những giây phút cuối thanh thản nhẹ nhàng. Trong “Bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu” anh đã từng viết:  Đừng sợ. Sống thì khó chứ chết thì ai mà chẳng có phần.
Hôm qua, tôi điện thoại thăm cô Chi nhân ngày giỗ thầy Nguyễn Mộng Giác, nghe giọng nói của tôi cô Chi mừng tủi, cô bật khóc rồi cố kìm nén, cô nói, cô mừng lắm, nghe giọng em cô mừng lắm. Thắp giúp em một nén nhang trên bàn thờ thầy nha cô. Năm nay cô mãn tang, bạn bè của thầy về đông lắm em, cô làm giỗ thầy hôm chủ nhật rồi, không phải hôm nay, vì ở Mỹ người ta làm gì cũng chờ đến chủ nhật, ngày thường họ đi làm hết. Giỗ thầy cũng vậy đó em.
Cô thông báo ông Tạ Chí Đại Trường bạn thầy cũng đang nguy kịch, ông ấy ở một mình không có gia đình, cô vào thăm luôn, mấy hôm trước cô thấy ông ấy không còn tỉnh nữa, đã mê sảng rồi. Ông Nguyễn Xuân Hoàng thì cũng đang chống chọi ở giai đoạn cuối, chị Vy vợ ông cũng đau nặng chạy thận vô ra nhà thương hàng ngày. Anh Đinh Cường, Lữ Quỳnh sức khỏe cũng đang có vấn đề, nghe nói đang dò tìm các mạch máu trên não, không biết ác tính hay lành tính đây.
Những tin tức này tôi đã biết, nhưng nghe cô nói tôi vẫn nao lòng, cuộc đời thật quá phù du cô ơi, ai rồi cũng đến ngày đó mà, em rồi cũng vậy thôi.

Tôi vẫn còn nhớ ngày anh Cao Xuân Huy bệnh nặng, nhà văn Trần Vũ báo tin, lúc ấy tôi thường gửi bài trên tạp chí Văn học, Hợp Lưu nên thân với các anh. Tôi điện thoại cho Cao Xuân Huy xin phép anh làm chuyên đề trên Vanchuongviet, nhưng chưa kịp thực hiện anh đã mệnh chung, ngày đó tôi ân hận hoài. Rồi đến cái chết của nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh, người mà tôi chưa kịp nói lời cảm ơn, chưa kịp viết bài cho cuốn thơ “Lời tình buồn” với những ca từ mà thế hệ tôi ai cũng thuộc:
Anh đi rồi còn ai vuốt tóc/Lời tình thơm sách vở học trò/Đêm xuống rồi em buồn không hở/Trời xa mù tầm tay với âu lo… tập thơ anh gửi tặng khi anh còn sống.

Hai tuần trước, anh Nguyên Minh email mời gọi tôi viết chuyên đề về Lữ Quỳnh trên tạp chí Quán Văn, tôi nhận lời nhưng đến bây giờ vẫn còn loay hoay. Bao lần viết, rồi bao lần xóa.
Với tôi, nhà văn Lữ Quỳnh như một người anh trai mà tôi trân quý.
Tôi quen anh cũng thật tình cờ.
Một ngày mùa hè mấy năm về trước, tôi bắt gặp bài viết của nhà thơ Du Tử Lê giới thiệu tập truyện “Những cơn mưa mùa đông” của Lữ Quỳnh do nhà xuất bản của Trần Hoài Thư ấn hành. Tôi email cho Trần Hoài Thư và Lữ Quỳnh hỏi thăm về tập sách, thời gian này tôi đang làm đề tài nghiên cứu khoa học về dòng Văn chương hải ngoại.
Ngay lập tức tôi nhận được phản hồi, và một tháng sau tôi nhận sách của anh từ một người bạn đem về nước. Anh nói, sách bên này gửi qua bưu điện thường thất lạc.
Khi biết tôi là tác giả tập sách “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” anh rất vui.
Mấy ngày sau, Lữ Quỳnh email hỏi tôi tập sách TCS ở Việt Nam ra sao rồi, báo chí dòng chính mấy năm trước đánh tơi bời em có ảnh hưởng gì không? Sách có được tái bản không? Tôi nói em vẫn bình thường, sách bán hết rồi, người tìm mua không có. Sau khi báo chí đưa tin, Cục Xuất Bản đã yêu cầu lần sau tái bản phải chỉnh sửa lại phần “TCS và Chiến tranh Việt Nam” nên có lẽ em sẽ không tái bản lúc này vì em muốn giữ nguyên quan điểm của mình.
Thật bất ngờ, khi tôi nghe anh nói anh sẽ gọi điện thoại cho NXB Văn Mới tại Cali, giúp tôi xuất bản sách tại Mỹ. “Anh thấy sách của em in ở Việt Nam có bày bán bên này. TCS là bạn của anh, và anh muốn những cuốn sách nghiêm túc viết về bạn của mình được phổ biến rộng rãi cho người Việt đọc”. Năm 2010, chỉ trong vòng 4 tháng tập sách đã tái bản ở Mỹ, một điều mà tôi không dám nghĩ đến. Với tôi, đó là một ân tình tôi không bao giờ quên.
Lần đầu tiên gặp anh ở Huế, nhân dịp khai mạc phòng tranh họa sĩ Đinh Cường tại Nguyễn Trường Tộ ngôi nhà ngày xưa của Trịnh Công Sơn, anh từ tốn, chân tình và rất chu đáo. Tôi thật may mắn có được những người bạn như các anh, những người bạn lớn hơn tôi mấy thế hệ mà tôi kính trọng, bên họ tôi luôn có cảm giác an toàn, ấm áp.

Với họa sĩ Đinh Cường lại là một cơ duyên khi tôi tái bản tập sách TCS ở Mỹ, anh Lữ Quỳnh kết nối tôi liên lạc anh Đinh Cường, anh đã tặng tôi nhiều hình ảnh về TCS trong phần phụ lục, anh nói TCS là bạn của anh, tôi viết về TCS nên xem tôi như bạn. Và anh mời tôi tham dự triển lãm phòng tranh khi anh về Việt Nam tổ chức bày tranh ở Đà Lạt vào năm 2011. Ngày đó có anh Bửu Ý ở Huế bay vào, anh chị Lữ Kiều, anh chị Nguyên Minh chủ biên Quán Văn, anh chị Trương Văn Dân từ Sài Gòn lên… và nhiều bạn bè của anh. Đó là một ngày thật vui, anh Đinh Cường hiền lành, ít nói, trong các cuộc đàm luận anh thường ngồi lắng nghe và thỉnh thoảng mỉm cười, sau chuyến đi anh tặng tôi bức tranh vẽ cảnh Đà Lạt với hồ Xuân Hương sắc xanh thăm thẳm.
Lần gặp sau là năm 2013 tại triển lãm phòng tranh ở Huế, lần đó có chị Siphani từ Paris về dự, chị là bạn của TCS và các anh thời tuổi trẻ. Với “bữa cơm vắt muối vừng” ngon tuyệt nhà anh Bửu Ý đãi. Đó là những ngày Huế mưa rả rích, lạnh nhưng ấm tình bạn bè. Rồi anh Đinh Cường hẹn sẽ về triển lãm tranh vào tháng 2.2016 tại Đà Nẵng, nhưng anh đã ra đi bất ngờ trước đó một tháng. Cái chết của anh gây nỗi buồn lớn, thương tiếc cho những người bạn của anh, và các anh chị trong tập san Quán Văn ở Việt Nam. Một thế hệ vàng tài hoa rồi cũng lần lượt ra đi, đó là một thế hệ tài giỏi nhưng vô cùng khiêm cung, và luôn cầu thị. Tôi e rằng nền văn học nghệ thuật Việt Nam sau này khó tìm được những thế hệ vàng như vậy.

Nhưng có lẽ gây thảng thốt nhất là cái chết bất ngờ của nhà văn Phùng Nguyễn khi còn khỏe mạnh, anh trong BBT trang web damau, chủ một blog trên Voatiengviet. Mấy ngày trước tôi còn nhận email của anh mời viết bài trên blog của anh, anh em còn đang trao đổi, vài hôm sau nghe tin nhà văn Phùng Nguyễn đột tử tôi choáng. Tôi còn nợ anh một bài chưa viết, dù anh hào phóng gửi nhuận bút trước cho tôi khi nhà thơ Lê Bi về nước trao một tháng trước ngày anh mất.

16 năm qua, tôi may mắn học hỏi được nhiều điều ở các nhà văn tài giỏi của những tờ báo uy tín mà tôi cộng tác, họ cho tôi cảm giác tôn trọng, sự nhiệt tình trách nhiệm trong công việc.
Giờ đây, các anh đều đã đi xa, và sẽ lần lượt từng người một, thời gian không chừa một ai, một thế hệ vàng từ từ biến mất, nhưng tác phẩm của họ sẽ còn lại với thời gian.
Càng lớn, tôi càng thấy tình bạn quý giá vô cùng, tìm một người bạn chơi được đã khó, kiếm được người hiểu mình càng khó hơn.
Có lẽ những người làm nghệ thuật, là những người thường cô đơn nhất, mặc dù bạn bè của họ lúc nào cũng vây quanh.
Trong tập thơ “Sinh nhật của một người không còn trẻ” anh Lữ Quỳnh từng viết:

Những ngọn nến thắp
Là hồi ức buồn…

Một ly mình. Và một ly không
Quán hoa giấy chiều nay lãng đãng
Uống ngụm nắng tàn trong chiếc ly không

Chiếc ly không là một chỗ ngồi trống vắng, là bóng dáng của một người bạn đã đi xa.
Bây giờ tôi mới hiểu vì sao ngày xưa, Trịnh Công Sơn đã viết tình bạn quý hơn tình yêu: “May thay trong đời vừa có tình yêu vừa có tình bạn. Tình bạn thường có khuôn mặt thật hơn tình yêu. Sự bội bạc trong tình bạn cũng có, nhưng không nhiều. Tôi thấy tình bạn quý hơn tình yêu vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và làm phục sinh một cuộc đời tưởng rằng không còn tái tạo được nữa.”
Tôi biết, những người bạn thế hệ các anh đã từng sống như vậy. Và tôi cũng tin “một tình bạn quý có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và làm phục sinh một cuộc đời tưởng rằng không còn tái tạo được”.

Ban Mai
Quy Nhơn, 5/7/2014, hiệu đính lại 4.2021

(*) Bài viết cách đây 7 năm, giờ nhiều anh không còn nữa, tưởng niệm những người anh lớn, các bậc trưởng bối của tôi.

Nguồn: Ngôn Ngữ 16 – tháng 11/2021